GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
Th.S. Vũ Lan Hương
Phó Chánh Văn phòng, Tổng cục GDNN

Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển thần kỳ, với một thị trường lao động ngày càng lớn và sôi động. Chính vì vậy, công tác giáo dục nghề nghiệp (GDNN) đã và đang được chú trọng hơn. Về phía Nhà nước, hệ thống GDNN đã được chuyển về đặt dưới sự thống nhất quản lý bởi Tổng cục GDNN, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Trong thực tế, ngày càng có nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông đã lựa chọn đi học nghề thay vì học đại học. Có thể nói, Giáo duc nghề nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến vượt bậc, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong nước và từng bước hội nhập với thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, hệ thống GDNN hiện nay mới chỉ tập trung cung cấp cho người học những kiến thức, kỹ năng và năng lực tự chủ để đáp ứng yêu cầu của công việc mà chưa chú trọng đúng mức công tác giáo dục QCN cho người lao động. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng vì trong mối quan hệ với người sử dụng lao động, người lao động thường ở thế yếu và dễ bị tổn thương. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với nhiều cam kết cao về lao động, quyền của người lao động trong quá trình sản xuất và cung ứng hàng hóa, sản phẩm. Học sinh, sinh viên tại các cơ sở GDNN là nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm, do đó, việc giáo dục và trang bị cho họ những kiến thức về QCN và kỹ năng tự bảo vệ mình trong các mối quan hệ lao động là cần thiết và cấp bách, một mặt giúp cho người lao động biết và sử dụng hợp lý các QCN của mình, mặt khác giúp cho sản phẩm, hàng hoá của Việt Nam hội nhập và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.

I. Giáo dục quyền con người và Giáo dục quyền con người trong GDNN

1. Giáo dục quyền con người

Theo UNESCO, Giáo dục quyền con người (QCN) là một bộ phận cấu thành của quyền được giáo dục và ngày càng được công nhận là một QCN. Kiến thức về các quyền và tự do được coi là một công cụ cơ bản để đảm bảo sự tôn trọng các quyền của tất cả mọi người. Giáo dục cần bao hàm các giá trị như hòa bình, không phân biệt đối xử, bình đẳng, công bằng, khoan dung và tôn trọng nhân phẩm. Chất lượng giáo dục dựa trên cách tiếp cận QCN có nghĩa là các quyền được thực hiện trong toàn bộ hệ thống giáo dục và trong tất cả các môi trường học tập. Từ năm 2005, UNESCO đã triển khai Chương trình Toàn cầu về Giáo dục QCN. Chương trình này được thành lập theo nghị quyết 59/113 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 10 tháng 12 năm 2005 và dựa trên những thành tựu của Thập kỷ Liên hợp quốc về Giáo dục QCN (1995-2004). Chương trình nhằm mục đích thúc đẩy sự hiểu biết chung về các nguyên tắc cơ bản và phương pháp luận của giáo dục QCN, đưa ra khuôn khổ hành động cũng như đầu tư vào việc xây dựng quan hệ đối tác và hợp tác từ cấp độ quốc tế đến các sáng kiến ​​cơ sở. Chương trình được cấu trúc theo từng giai đoạn: giai đoạn đầu (2005-2009) tập trung vào giáo dục QCN trong hệ thống trường tiểu học và trung học cơ sở; giai đoạn hai (2010-2014) tập trung vào giáo dục QCN cho giáo dục đại học và các chương trình đào tạo QCN cho giáo viên, nhà giáo, công chức, viên chức thực thi pháp luật và quân nhân; giai đoạn ba (2015-2019) tập trung vào việc tăng cường thực hiện trong hai giai đoạn đầu và thúc đẩy đào tạo QCN cho các chuyên gia truyền thông và nhà báo.

Cũng theo UNESCO, Giáo dục QCN (giáo dục nhân quyền) là tất cả việc học tập nhằm xây dựng kiến ​​thức, kỹ năng, thái độ và hành vi về QCN. Đó là một quá trình trao quyền bắt đầu từ cá nhân đến cộng đồng. Giáo dục QCN nhằm mục đích phát triển sự hiểu biết về trách nhiệm chung của mọi người nhằm biến QCN thành hiện thực trong mỗi cộng đồng và trong xã hội nói chung. Theo nghĩa này, nó góp phần ngăn chặn lâu dài các vi phạm QCN và xung đột bạo lực, thúc đẩy bình đẳng và phát triển bền vững, và tăng cường sự tham gia vào các quá trình ra quyết định trong một hệ thống dân chủ.

Ở nghĩa cụ thể hơn, thuật ngữ “giáo dục QCN” bao gồm giáo dục về quyền công dân dân chủ và giáo dục về sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, tất cả đều dựa trên các tiêu chuẩn QCN đã được quốc tế thống nhất. Ba lĩnh vực này được coi là liên kết với nhau và thiết yếu trong các hệ thống giáo dục để chuẩn bị cho thanh thiếu niên trở thành những người tham gia tích cực, có trách nhiệm và quan tâm đến cộng đồng, cũng như ở cấp quốc gia và toàn cầu. Giáo dục QCN được định nghĩa là giáo dục, đào tạo và cung cấp thông tin nhằm xây dựng một nền phổ văn hóa nhân quyền. Một nền giáo dục toàn diện về QCN không chỉ cung cấp kiến ​​thức về con người quyền và các cơ chế bảo vệ chúng, mà còn truyền đạt các kỹ năng cần thiết để thúc đẩy, bảo vệ và áp dụng QCN trong cuộc sống hàng ngày.

2. Giáo dục quyền con người trong giáo dục nghề nghiệp

Theo Điều 4 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, GDNN là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn. Đây cũng là mục tiêu chung của GDNN ở Việt Nam hiện nay.

GDNN gồm 03 cấp trình độ đào tạo: Sơ cấp, Trung cấp, Cao đẳng được thực hiện trong các trung tâm GDNN, trường trung cấp, trường cao đẳng, các doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động GDNN tại Việt Nam. Từng cấp trình độ đào tạo được xác định mục tiêu riêng: đào tạo trình độ sơ cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề; đào tạo trình độ trung cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm; và đào tạo trình độ cao đẳng để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực hiện công việc.

Như vậy, đối tượng giáo dục QCN trong GDNN rất rộng và đa dạng, bao gồm toàn bộ cá nhân trong các trung tâm GDNN, trường trung cấp, trường cao đẳng và cả các doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động GDNN tại Việt Nam, họ có thể là các học sinh, sinh viên nhưng cũng có thể là những người lao động đã/đang tham gia thị trường lao động, bao gồm cả nhóm đối tượng dễ bị tổn thương tham gia vào hoạt động GDNN và đào tạo kỹ năng. Ngoài ra, giáo viên, nhà giáo và những nhà quản lý GDNN, người sử dụng lao động cũng là những đối tượng quan trọng cần tập trung giáo dục QCN. Họ vừa là chủ thể giáo dục, vừa là đối tượng giáo dục.

Trên cơ sở xác định chủ thể và đối tượng giáo dục QCN, căn cứ theo nội dung Quyết định số 1309/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, cần xác định cụ thể nội dung và chương trình giáo dục QCN trong GDNN như sau:

Về nội dung giáo dục QCN:

- Đối với cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên: Nội dung cơ bản của QCN, quyền công dân; Quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước Việt Nam về QCN, đặc biệt là QCN trong lĩnh vực GDNN, việc làm; Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên; Các văn kiện của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền lao động.

- Đối với học viên: Nội dung cơ bản của QCN, quyền công dân, đặc biệt là QCN trong lĩnh vực GDNN, việc làm; Các cơ chế bảo vệ QCN; Kỹ năng ứng dụng QCN trong hoạt động nghề nghiệp; giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ lao động; Quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.

Về Chương trình giáo dục QCN:

- Đối với cán bộ quản lý, giảng viên, giáo viên: cần được cung cấp tài liệu bồi dưỡng kiến thức về QCN cho cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên.
- Đối với học viên:

+ Học viên hệ Sơ cấp: Chương trình lồng ghép về QCN vào nội dung đào tạo để người học có năng lực thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề vừa nhận thức về quyền và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả công việc, sản phẩm của mình với việc tôn trọng quyền của người khác, thúc đẩy sự phát triển của bản thân phấn đấu trở thành thành viên có trách nhiệm trong xã hội.

+ Học viên hệ Trung cấp: Chương trình lồng ghép QCN vào nội dung đào tạo để người học năng lực thực hiện được các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm. Bên cạnh đó, người học cần được bổ sung kiến thức về quyền của người lao động, quyền của người sử dụng lao động, an toàn lao động...

+ Học viên hệ Cao đẳng: Chương trình lồng ghép QCN vào nội dung đào tạo để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực hiện công việc. Ngoài ra, sinh viên cần được trang bị thêm kiến thức về QCN trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ 4.0 bình đẳng, không phân biệt đối xử...

II. Hệ thống GDNN và thực trạng giáo dục QCN trong các cơ sở GDNN

1. Thực trạng đội ngũ nhà giáo và học sinh, sinh viên cơ sở GDNN

Tính đến tháng 6 năm 2021, cả nước có 83.959 nhà giáo đang giảng dạy ở 3.024 cơ sở hoạt động GDNN2], trong đó có 28.472 nhà giáo là nữ (chiếm tỷ lệ 35.4%); tính riêng khối các cơ sở GDNN công lập có 47.465 người. Tại các trường cao đẳng có 37.235 nhà giáo, trong đó có 16.518 nhà giáo là nữ (chiếm tỷ lệ 44.0%). Tại các trường trung cấp có 13.295 nhà giáo, trong đó có 4.998 nhà giáo là nữ (chiếm tỷ lệ 37.6%). Tại các trung tâm GDNN-GDTX có 23.086 nhà giáo, trong đó có 4.079 nhà giáo là nữ (chiếm tỷ lệ 22.3%). Tại các cơ sở khác có tham gia hoạt động GDNN có 10.343 nhà giáo, trong đó có 2.877 nhà giáo là nữ (chiếm tỷ lệ 34.9%).

Về học sinh, sinh viên, hiện cả nước có 2.190.000 học sinh, sinh viên, trong đó cao đẳng là 229.547, trung cấp 280.435, sơ cấp 987.004 và dưới 03 tháng là 692.996 em. Học sinh nữ là 649.916 em, chiếm 29.7% và học sinh, sinh viên thuộc dân tộc ít người là 219.429 em, chiếm 10%.

2. Thực trạng giáo dục QCN trong các cơ sở GDNN

Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội đã ban hành Thông tư 13/2018/TT-BLĐTBXH ngày 26 tháng 9 năm 2018 ban hành chương trình môn học Pháp luật thuộc khối các môn học chung trong chương trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng (không áp dụng đối với các ngành, nghề đào tạo thuộc chức năng quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo), trong đó, đào tạo trình độ trung cấp: 15 giờ, đào tạo trình độ cao đẳng: 30 giờ, đã bổ sung nội dung QCN vào giáo trình pháp luật dùng trong các trường cơ sở GDNN. Nội dung giáo dục QCD bao gồm các quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về lao động….
Ngoài ra, tại một số trường cao đẳng chuyên ngành luật, năm 2019, để chuẩn bị nâng cấp 03 trường trung cấp thành trường cao đẳng, Bộ Tư pháp đã ban hành chương trình khung trình độ cao đẳng cho hai mã ngành pháp luật và dịch vụ pháp lý, dùng cho các cơ sở GDNN của Bộ. Các chương trình này tiếp cận các vị trí nghề nghiệp khác nhau, tuy nhiên, cách tiếp cận dựa trên quyền cũng như các nội dung cơ bản về QCN mặc dù đã có nhưng mới chỉ dừng lại ở tính tự phát; chưa có một cách tiếp cận bài bản, xuyên suốt quá trình thiết kế và tổ chức triển khai chương trình đào tạo từ xây dựng mục tiêu, lựa chọn môn học và phương pháp tổ chức dạy - học.

Ngoài ra, hoạt động giáo dục QCN trong các cơ sở GDNN là nhằm trang bị kiến thức về QCN cho sinh viên, hướng tới sự tôn trọng QCN của thế hệ trẻ tiến bộ được thực hiện bằng cả chương trình đào tạo chính thức tại các cơ sở giáo dục và đào tạo, các hình thức giáo dục không chính thức. Hình thức không chính khóa chủ yếu được thực hiện thông qua tuần sinh hoạt công dân ngay khi học sinh, sinh viên mới nhập trường, hoặc thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, thông qua việc mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về QCN, quyền trẻ em, quyền phụ nữ/bình đẳng giới... do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Ủy Ban Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội và một số cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương triển khai với sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế.

III. Những thuận lợi và khó khăn trong giáo dục QCN trong GDNN

1.    Thuận lợi

Thứ nhất, việc triển khai công tác giáo dục QCN tại Việt Nam nói chung và trong GDNN nói riêng phù hợp với xu thế trên thế giới và Việt Nam

Giáo dục QCN đã trở thành một xu hướng trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Các tổ chức Liên hợp quốc, các nước phát triển trên thế giới đều có các chương trình giáo dục QCN, bao gồm các chương trình giáo dục QCN trong giáo dục như: Dự án Giáo dục QCN và viêc làm cho thanh niên của Liên minh châu Âu (2018), các chương trình, ấn phẩm về giáo dục QCN trong GDNN của Ủy ban nhân quyền Úc…Bên cạnh đó, các tổ chức hoạt động về QCN ngày càng nhiều và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam. Đây là nguồn hỗ trợ rất lớn cả về kinh nghiệm, đào tạo và bảo vệ các trường hợp cụ thể trên thực tế cho Việt Nam trong sự nghiệp giáo dục QCN. Đặc biệt, là các hoạt động giáo dục QCN của họ được tổ chức rất thường xuyên, sâu, rộng đều sử dụng phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn xử lý các trường hợp cần hỗ trợ về nhân quyền. Qua đó, phương pháp giáo dục QCN hiện đại kết hợp lý luận và thực tiễn có cơ hội lan tỏa và kiểm chứng được tính hiệu quả cao.

Đến nay Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn, gia nhập 07 công ước chính của Liên hợp quốc về QCN, 7/8 Công ước cơ bản của Tổ chức lao động quốc tế (không kể các công ước do các tổ chức quốc tế khác thông qua). Việc giáo dục QCN là một trong những trách nhiệm của mỗi quốc gia thành viên. Trong đó có trách nhiệm thực hiện các điều ước quốc tế, đưa nội dung QCN đến với mọi người trong xã hội, đó là cách thức thực hiện quyền được giáo dục về QCN. Việc đẩy mạnh giáo dục QCN không chỉ thực hiện cam kết trước cộng đồng quốc tế mà còn có ý nghĩa quan trọng để cộng đồng quốc tế thấy rõ các thành tựu trong bảo vệ, bảo đảm QCN, để họ hiểu rõ hơn về những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam, đồng thời chia sẻ những khó khăn, tác động đến bảo vệ QCN; qua đó khắc phục tình trạng bị động trong hoạt động tuyên truyền đối ngoại.

Ở Việt Nam, từ quan điểm của Đảng đến sự điều chỉnh của pháp luật vấn đề QCN đã được quan tâm sâu sắc thông qua các chế định về QCN đã được ghi nhận, đồng thời có cơ chế bảo đảm, bảo vệ các quyền này. Vấn đề QCN ngày càng được quan tâm bởi các tầng lớp trong xã hội, điều đó dẫn đến một lối tư duy và hành động mới về QCN trong đó nhu cầu tìm hiểu về QCN cũng như nhu cầu bảo vệ QCN ngày càng có xu hướng gia tăng ở cấp độ cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Quyết định số 1309/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, đó là đưa nội dung QCN vào chương trình GDNN, đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác là một minh chứng rõ nét cho cam kết chính trị của Việt Nam trong thúc đẩy giáo dục QCN trong hệ thống giáo dục, từ đó lan tỏa tới toàn xã hội, cá nhân.

Thứ hai, các điều kiện cơ sở vật chất, nguồn nhân lực về người dạy đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu

Việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở trình độ sau đại học về QCN trong các năm qua ở Việt Nam bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, các điều kiện cơ sở vật chất như kinh phí cho đào tạo QCN được chú trọng, các phòng thực hành QCN, tài liệu về QCN được tiến hành, đầu tư đa dạng cả về nội dung và hình thức là một trong những nguồn tài nguyên để người học có thể tiếp cận và xử lý tình huống.

Chất lượng nhà giáo GDNN từng bước được nâng lên cả về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề và năng lực sư phạm. Về trình độ chuyên môn, cơ bản 100% nhà giáo đạt chuẩn về trình độ đào tạo, trong đó 76,9% nhà giáo có trình độ đại học và trên đại học (trong số này nữ chiếm 40%), 17,7% nhà giáo có trình độ cao đẳng, trung cấp và 5,4% nhà giáo có trình độ khác. Về nghiệp vụ sư phạm, khoảng 95% nhà giáo giảng dạy trong các trường cao đẳng, 85% nhà giáo giảng dạy trong các trường trung cấp và 80% nhà giáo giảng dạy trong các trung tâm GDNN đạt chuẩn về nghiệp vụ sư phạm. Về kỹ năng nghề, khoảng 70% nhà giáo GDNN đạt chuẩn trình độ kỹ năng nghề để dạy thực hành, dạy tích hợp.

Hầu hết nhà giáo tận tụy, cống hiến với sự nghiệp GDNN, có phẩm chất, đạo đức tốt. Một số nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và các giải thưởng cao quý khác, hàng ngàn nhà giáo được công nhận nhà giáo dạy giỏi các cấp.

Thứ ba, đặc thù GDNN kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, trong đó chú trọng vào thực hành, đào tạo dựa trên thực tế sẽ giúp cho giáo dục QCN và lồng ghép giáo dục QCN hiệu quả hơn

Trong giáo dục QCN, việc kết hợp giáo dục lý luận về QCN với thực tiễn (thực hành) thực hiện QCN là một yêu cầu cấp thiết trong tổ chức giảng dạy QCN hay nói cách khác đó là một phương pháp đào tạo QCN. Để triển khai phương pháp này cần có những cách thức phù hợp để tránh tình trạng quá thiên về lý luận hoặc quá nghiêng về thực tiễn. Việc không cân đối trong kết hợp hai yếu tố lý luận và thực tiễn sẽ dễ dẫn đến sự nhận thức trong tư duy hoặc trong hành động có thể bị sai lệch.

Hiện nay, hầu hết các cơ sở GDNN đều xây dựng chương trình đào tạo đảm bảo tỷ lệ/thời lượng học lý thuyết là 30% và thực hành 70%. Đây là một cơ sở rất tốt cho việc giáo dục QCN kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Người học có thể thực tập ngay lập tức các tình huống tự vệ, bảo vệ hoặc được người khác bảo vệ nên khả năng ứng dụng sẽ cao. Việc kết hợp giữa lý luận và cho học viên được đánh giá, tự giải quyết vấn đề trong thực tiễn sẽ tăng khả năng ghi nhớ lâu hơn rất nhiều và sẽ khiến học viên hứng thú với bài giảng hơn, tư duy có tính hệ thống và phản biện cao từ đó qua đó ghi nhớ sâu sắc hơn nội dung của các QCN và nâng cao khả năng giải quyết tình huống trong thực tế, đồng thời, thúc đẩy tăng tính chủ động, tự lực và tích cực trong học tập của người học.
Bên cạnh đó, các hoạt động tuyên truyền về GDNN hiện nay đang được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhiều hoạt động lớn được tổ chức hàng năm như: Ngày hội Khởi nghiệp học sinh, sinh viên GDNN, Lễ tuyên dương học sinh, sinh viên xuất sắc, tiêu biểu GDNN, Ngày kỹ năng nghề Việt Nam (4/10 hàng năm), Ngày hội tuyển sinh, hướng nghiệp hàng năm; Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018-2025” ...Các hoạt động giáo dục về QCN hoàn toàn có thể được lồng ghép vào các hoạt động này để tạo tính lan tỏa và ảnh hưởng.

Thứ tư, sinh viên trong các cơ sở GDNN là một thế hệ có tư duy mở, có khả năng tiếp nhận cái mới và trách nhiệm cao với bản thân và cộng đồng

Điều này là thuận lợi rất lớn cho việc kết hợp lý luận và thực tiễn thực hiện QCN. Người học trong các cơ sở GDNN là nhóm đối tượng đã đạt đến trình độ nhận thức nhất định nhưng quan trọng hơn cả là họ có khả năng kết nối với cộng đồng, kết nối với thế giới rất nhanh và hiệu quả đồng thời họ sớm định hình được trách nhiệm cá nhân đối với bản thân và cộng đồng. Do đó, việc tiếp nhận giáo dục QCN đối với họ là cần thiết như một nhu cầu của sự hiểu biết và khám phá cũng như mục tiêu của hoạt động nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách. Do đó, họ sẵn sàng và hào hứng trong tiếp nhận tri thức QCN qua sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thực hiện.

2.    Khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những thuận lợi, vấn đề giáo dục QCN trong hệ thống GDNN có nhiều hạn chế, khó khăn so với các bậc học khác.

Thứ nhất, các cơ sở GDNN, bao gồm người dạy và người học, chưa nhân thức đúng đắn về tầm quan trọng và giá trị của giáo dục QCN và thời lượng dành cho các môn học chung, môn học lý thuyết rất hạn chế.

Do đặc thù của lĩnh vực, việc đào tạo giáo dục kỹ thuật với quan điểm đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp là chính nên thực tế nhiều môn học chung như giáo dục chính trị, pháp luật, tin học, ngoại ngữ, giáo dục thể chất và giáo dục quốc phòng an ninh không được các em học sinh chú trọng, thời lượng cho các môn học này cũng rút ngắn hơn so với các bậc học khác. Đối với việc giáo dục QCN, phương án tối ưu được lựa chọn là lồng ghép môn học Pháp luật hiện đang đào tạo tại các cơ sở GDNN. Theo Thông tư số 13/2018/TT-BLĐTBXH ngày 26/09/2018 ban hành Chương trình môn học Pháp luật, toàn bộ môn học Pháp luật bao gồm 06 bài với tổng thời lượng là 15 giờ, trong khi Đề án 1309 quy định: “Đối với các trường cao đẳng không thuộc khối trường luật, hành chính, nội chính, các nội dung QCN được tích hợp, lồng ghép vào môn học pháp luật hoặc pháp luật đại cương, với thời lượng ít nhất là 6 giờ, bao gồm cả kiểm tra kiến thức cho tất cả các ngành đào tạo”. Đây là một thách thức lớn trong việc bố trí, sắp xếp chương trình vừa đảm bảo đầy đủ nội dung, vừa đảm bảo phù hợp với chương trình đào tạo chung.

Nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề giáo dục QCN còn rất hạn chế tại các cơ sở GDNN, đối với cả giáo viên và học sinh, cùng với việc thời lượng dành cho các môn lý thuyết hạn chế, do đó, để thúc đẩy giáo dục về QCN đòi hỏi một quá trình lâu dài, thường xuyên, được thực hiện thông qua các môn học và lồng ghép vào toàn bộ quá trình đào tạo.

Thứ hai, các loại hình đào tạo, đối tượng đào tạo trong GDNN rất đa dạng nên việc xây dựng được một giáo trình chuyên sâu và thống nhất về QCN trong GDNN là công việc rất công phu.

Việc đưa giáo dục QCN thành một môn học riêng trong GDNN là khó khả thi, do đó, việc đưa nội dung QCN vào chương trình giảng dạy còn tuỳ thuộc vào nhận thức về mức độ cần thiết, ngành nghề đào tạo và năng lực của mỗi cơ sở GDNN. Các vấn đề liên quan đến quyền được lồng ghép trong giáo trình giảng dạy môn pháp luật với thời lượng tiết học rất hạn chế, còn sơ khai, phụ thuộc vào yêu cầu của các bộ môn đối với giảng viên và kiến thức về lĩnh vực QCN của giáo viên. Ngay cả đối với môn pháp luật, các cơ sở đào tạo cán bộ quản lý giáo dục từ năm 2014 đều dùng chung giáo trình “Pháp luật đại cương” do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Nội dung bài giảng đều không thể hiện bất kỳ nội dung nào liên quan đến cách tiếp cận dựa trên quyền cũng như yêu cầu về năng lực của người học về nội dung QCN, chỉ yêu cầu người học phải: “nắm vững kiến thức cơ bản về Nhà nước và pháp luật nói chung và về Nhà nước và hệ thống pháp luật của Việt Nam” và có năng lực “vận dụng kiến thức đã học, cập nhật pháp luật hiện hành và vận dụng đúng đắn pháp luật trong thực tiễn công tácngay cả bài Luật lao động với tư cách là mô-đun bắt buộc cũng chưa tiếp cận theo hướng học viên ra trường sẽ trở thành người lao động và do đó cần phải phải nắm vững và thực hiện tốt các quyền của chính mình trong quan hệ lao động mà đang hướng tới đào tạo cán bộ pháp chế, người đặt ra các nội quy, quy chế trong lĩnh vực này hoặc người làm tư vấn pháp luật về lao động. Chính vì vậy, sinh viên cũng chỉ được tiếp xúc với QCN ở mức rất hạn chế, kiến thức QCN thu được rời rạc. Do vậy, không thể có một cái nhìn toàn diện về QCN, từ đó khó có thể hình thành ý thức tôn trọng QCN trong sinh viên.

Ngoài ra, đối tượng tham gia GDNN rất đa dạng, từ thanh niên, người đã đi làm và cả các nhóm dễ bị tổn thương và các cơ sở GDNN đào tạo các ngành nghề khác nhau...Do đó, để có thể xây dựng một chương trình mới hoặc chương trình lồng ghép, cần rà soát, đánh giá lại toàn bộ chương trình các môn hiện có, đồng thời, đối với mỗi cấp trình độ (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng) và loại hình đào tạo (tại trường, tại doanh nghiệp), nội dung đào tạo cần phải xác định và xây dựng phù hợp, không thể áp dụng chung một bộ chương trình và một phương pháp thống nhất. Điều quan trọng nhất là nội dung và phương pháp phải đảm bảo tiếp cận dựa trên quyền.

Thứ ba, giáo viên là người giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh, chất lượng đội ngũ nhà giáo GDNN vẫn còn nhiều bất cập.

Trình độ kỹ năng nghề của nhà giáo nhìn chung còn chưa đồng đều, còn hạn chế ở một số ngành nghề. Tỷ lệ nhà giáo vừa dạy được lý thuyết vừa dạy được thực hành thấp (khoảng 51%), trong đó, nhà giáo dạy lý thuyết hạn chế về kỹ năng nghề, nhà giáo dạy thực hành hạn chế kiến thức chuyên môn. Đây là một thách thức lớn của đội ngũ nhà giáo trong việc đáp ứng yêu cầu đổi mới GDNN khi mà yêu cầu có ít nhất là 65% giáo viên ở các trường cao đẳng và 60% giáo viên ở trường trung cấp vừa phải dạy được lý thuyết vừa phải dạy được thực hành (dạy tích hợp). Trình độ ngoại ngữ, tin học của đội ngũ nhà giáo thấp, ảnh hưởng đến khả năng cập nhật công nghệ mới, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Kỹ năng phát triển chương trình, biên soạn giáo trình, tài liệu đào tạo còn yếu, nhất là đối với nhà giáo trong các khối các trường trung cấp, trung tâm GDNN thuộc địa phương và các cơ sở GDNN ngoài công lập.

Mặc dù trong những năm qua nguồn nhân lực chất lượng cao về QCN đã được đào tạo tăng hơn rất nhiều so với trước đây tuy nhiên chưa đảm bảo yêu cầu sâu về lý luận và rộng về thực tiễn. Quá trình tác nghiệp còn nghiêng nhiều về lý luận, vấn đề thực hành chưa thực sự phát huy hiệu quả. Ngoài ra, người được đào tạo chuyên sâu về QCN mới dừng lại ở đối tượng là giáo viên giảng dạy về pháp luật, giáo dục công dân; các ngành nghề khác còn rất hạn chế. Do đó, người dạy về QCN chủ yếu mới dừng lại ở người am hiểu pháp luật mà thiếu hụt yếu tố thực tiễn. GDNN có thuận lợi là thời lượng thực hành nhiều, học sinh được trải nghiệm lý thuyết thông qua thực hành nghề, nhưng đối với giáo dục QCN, để có thể thực tế hóa lý thuyết về QCD, truyền đạt vấn đề QCN thông qua tình huống cụ thể, giáo viên cần sự hiểu biết sâu sắc về QCN, tư duy và sự nhạy cảm về quyền như một chuyên gia về QCN. Bên cạnh đó, để có thể xây dựng được tài liệu và phương pháp đào tạo tiếp cận theo quyền, các giáo viên, chuyên gia phải là những người am hiểu luật quốc tế, vấn đề QCN dưa trên các tiêu chuẩn quốc tế, các vấn đề QCN mới nổi trên thế giới, tuy nhiên, đội ngũ GDNN hiện vẫn còn hạn chế về năng lực ngoại ngữ, cơ hội tiếp cận với các vấn đề quốc tế nên đây sẽ là một rào cản lớn đối với quá trình xây dựng chương trình cũng như tổ chức đào tạo sau này.

Bên cạnh các khó khăn, hạn chế chủ yếu trên, còn rất nhiều những vấn đề cần phải xem xét, nghiên cứu trong quá trình xây dựng và tổ chức giáo dục QCN tại các cơ sở GDNN. Tương tự như các nước đang phát triển khác, GDNN tại Việt Nam vẫn được coi là “điểm trũng” trong hệ thống giáo dục quốc dân, là sự “lựa chọn thứ 2” sau giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, do đó, trình độ đầu vào của phần lớn các em học sinh, sinh viên còn khá thấp, do đó, việc tiếp thu những kiến thức về QCN sẽ gặp nhiều khó khăn.

IV. Đề xuất những giải pháp và cách tiếp cận giáo dục QCN trong GDNN

Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi cũng như khó khăn, hạn chế đối với việc giáo dục QCN trong GDNN, một số giải pháp trước mắt cần triển khai như sau:
Một là, để xây dựng một chương trình giáo dục hoàn chỉnh và các phương pháp giáo dục hiệu quả, trước tiên, cần có các điều tra, khảo sát chương trình đào tạo tại các cơ sở GDNN để thấy được bức tranh toàn cảnh về thực trạng giáo dục QCN, từ đó có cơ sở đề xuất phương hướng lồng ghép giáo dục QCN vào chương trình GDNN.

Hai là, song song với quá trình xây dựng chương trình, đào tạo cán bộ, đối với lĩnh vực GDNN, tuyên truyền cần đi trước một bước để thay đổi tư duy về giá trị QCN, tầm quan trọng của việc bảo vệ QCN trong người học, người dạy và cơ sở GDNN để khi tiếp cận với chương trình đào tạo, giáo viên và học sinh chủ động và dễ dàng tiếp cận và tiếp nhận các kiến thức mới.

Ba là, hoàn chỉnh khối kiến thức và phương pháp dạy học mới trong giáo dục môn học QCN, xây dựng bài giảng hiện đại, hấp dẫn; biên soạn giáo trình, sách và tài liệu giáo dục cho từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể. Hiện nay, chưa có giáo trình chung, thống nhất; chưa có đầy đủ tài liệu cho việc giáo dục QCN theo từng nhóm đối tượng. Cần xác định những điểm đặc thù của GDNN để đưa mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục QCN một cách hợp lý, vừa đảm bảo được mục tiêu của GDNN, vừa tránh trùng lắp, chồng chéo với các loại hình giáo dục khác, trong đó, ngoài những kiến thức chung về QCN, quyền dân sự, quan trọng nhất là học sinh, sinh viên GDNN cần được trang bị đầy đủ kiến thức về các quyền liên quan đến lao động, bao gồm pháp luật lao động Việt Nam và các quyền cơ bản của người lao động theo tiêu chuẩn lao động quốc tế mà Việt Nam là thành viên, bởi vì họ sẽ là những người trực tiếp tham gia vào thị trường lao động, quan hệ lao động sau này. Bên cạnh đó, đối với từng ngành nghề cụ thể phải xác định được nội dung QCN cần đưa vào chương trình giảng dạy, có thể trực tiếp trong giáo trình hoặc lồng ghép trong quá trình thực hành, đặc biệt là các ngành nghề có nguy cơ rủi ro vào tới sức khỏe hoặc nhân phẩm của người lao động.

Bốn là, tổ chức các lớp tập huấn cho giáo viên nguồn và giáo viên tại cơ sở GDNN theo chủ điểm phù hợp với các lĩnh vực nghề nghiệp để nâng cao tri thức, củng cố lý luận về QCN cho người dạy đồng thời tăng khả năng tiếp cận và giải quyết tình huống QCN gắn với nghề nghiệp trong thực tế, làm thế nào để giáo viên GDNN có khả năng kết hợp giáo dục lý luận về QCN với thực tiễn (thực hành) thực hiện QCN trong GDNN
Năm là, bên cạnh các hoạt động giáo dục tại cơ sở GDNN, tại doanh nghiệp, cần tổ chức các hoạt động ngoại khóa, các cuộc thi dưới mọi hình thức như hung biện, tranh biện,… về các tình huống QCN nổi bật; có thể lồng ghép vào các hoạt động tuyên truyền hiện đang được thực hiện để tạo môi trường đào tạo QCN trong cơ sở GDNN.

Sáu là, đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu sử dụng phương pháp kết hợp giáo dục lý luận về QCN với thực tiễn (thực hành) thực hiện QCN trong GDNN như đầu tư các phòng thực hành để học viên có thể luyện tập tranh biện, diễn thuyết. Đồng thời, tăng cường tài nguyên tư liệu về lý luận QCN và tổng hợp các trường hợp bảo vệ QCN để làm tư liệu nghiên cứu đào tạo. Trong đó, sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo về QCN cần được chú trọng đầu tư cả về chất lượng và hình thức, phát hành rộng rãi và thường xuyên chỉnh sửa, cập nhật để người học và người dạy được tiếp cận nguồn tài liệu phong phú.
Tóm lại, kết hợp giáo dục lý luận về QCNvới thực tiễn (thực hành) thực hiện QCN trong GDNN là một phương pháp hiện đại, có tính hiệu quả cao có nhiều cách thức thực hiện tuy nhiên cũng đòi hỏi nhiều yêu cầu, điều kiện cả về chính sách, vật chất và nguồn nhân lực. Để giáo dục QCN ngày càng phát triển và đạt hiệu quả cao ở Việt Nam thì cần sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn và thúc đẩy những nhân tố thuận lợi hiện có./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp, luật số 74/2014/QH13, năm 2014.
2. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định 1309/QĐ-TTg ngày 05/9/2017 phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục,
3. Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng hợp “Nghiên cứu nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người trong giáo dục phổ thông”, Hà Nội, 2019.
4. TS. Phan Hồng Dương, 2018, Giáo dục quyền con người cho sinh viên trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam, Tạp chí quản lý giáo dục
5. Đại hội đồng Liên hợp quốc, Tuyên ngôn về Giáo dục và đào tạo nhân quyền, ngày 09 tháng 12 năm 2011.
6. Office for Democratic Institutions and Human Rights (ODIHR), Human Rights Education in the School System of Europe, Centrao Asia and North America: A Compendium of Good Practice
7. European Commission, 2018, Human Rights Education and Youth Work.